Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Đọc chọn cho dự án sách VƯỜN THƠ NĂM NHÀ/ Tập 1/ Thơ Nguyễn Nguyên Bảy

Đọc chọn cho dự án sách VƯỜN THƠ NĂM NHÀ/ Tập 1/ Thơ Nguyễn Nguyên Bảy


Đọc chọn cho dự án sách VƯỜN THƠ NĂM NHÀ,1
  Thơ NGUYỄN NGUYÊN BẢY

Tủ sách THƠ BẠN THƠ
Lý Phương Liên-Nguyễn Nguyên Bảy
(Chủ biên)

VƯỜN NĂM NHÀ
nguyễn nguyên bảy
HẠT CÁT
hoàng xuân họa 
LÝ PHƯƠNG LIÊN

mai an nguyễn anh tuấn 
Thơ 

NXB HỘI NHÀ VĂN

Lời thưa,   
Cảm ơn các đấng sinh thành và gây dựng Thi Đàn Việt, cảm ơn các thi nhân tiền bối giờ này nơi cõi khác vẫn mong đợi ngâm ca tình thơ con cháu. Cảm ơn và kính dâng lên miền thiêng thơ những áng thơ thời chúng tôi đang sống.
Cảm ơn thơ, Cảm ơn các người thơ cao cả đã ban cho chúng tôi vinh dự thực hiện ước mơ tự nguyện được đọc chọn và nhân bản quảng bá những bông thơ bầu bạn. Bảo là ước mơ tự nguyện, bởi đây là sự tri ân đạo lý với thơ và các bạn thơ đã sinh dưỡng đức tin, trợ cứu đời sống, chỉ dạy chúng tôi tu thân sống làm người tử tế.
Cảm ơn các bạn thơ mở lòng đón nhận sách Thơ Bạn Thơ. Xin hỷ xả chúng tôi kiến văn giới hạn trước vườn thơ trăm hoa, khó tránh việc đọc chọn còn nhầm quên mạch nguồn tiềm ẩn. Xin hỷ xả chúng tôi tâm chưa đắc bồ đề còn chịu áp lực đời thường, tình thơ còn vướng lụy sân si. Xin hỷ xả và nuôi dưỡng đức tin, đã là thơ đúng nghĩa và hay, không sớm thì muộn, chưa hôm nay sẽ ngày mai, chưa kịp quảng bá trong sách Thơ này sẽ được in trong sách Thơ tiếp sau, chúng tôi sót quên, các bạn thơ khác sẽ nhớ, sẽ đọc chọn, là Thơ hay, nhất định sẽ hiển lộ sắc hương.
Cảm ơn thơ kết nối tình thơ. Cảm ơn Thơ Bạn Thơ góp điệu vần vinh danh Thi Đàn Việt. Cảm ơn bạn thơ đã hưởng ứng, trợ sức chọn đọc, phát hiện thơ . Xin nắm tay nhau, đồng lòng, hiệp sức cùng đi tiếp hành trình Thơ Bạn Thơ.
Hè 2012
Lý Phương Liên, Nguyễn Nguyên Bảy, kính bút.



VƯỜN NĂM NHÀ


thơ. nguyễn nguyên bảy



NGUYỄN NGUYEN BẢY, THƠ LÀ THƠ..  NGUYỄN VĂN HÒA, đò đưa

Tôi không phải nhà văn, nhà thơ. Tôi chỉ là người chép chữ xuôi rồi bảo là văn. Chép chữ vần rồi bảo là thơ. Chép từ hồi tiểu học Lương Yên những năm đầu giải phóng Thủ đô, bạn “lớp chúng mình” gọi đùa Trương Chi. Chép chữ suốt từ ấy đến giờ, ngày nào ít nhiều cũng chép. Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê thơ điên cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức giấc, ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió… Thơ là thơ. Vì ba từ của định nghĩa ấy tôi đã suýt xong một đời. Thơ là thơ. Thơ không phải là địa vị của người làm thơ. Mười lăm chữ ấy đủ cho một bản án không tuyên”.

Đây chính là những lời giãi bày gan ruột của Nguyễn Nguyên Bảy về nghiệp cầm bút. Ta có thể coi đó là tuyên ngôn nghệ thuật của ông về thơ. Dù ông không nhận và chưa bao giờ nhận mình là nhà văn, nhà thơ nhưng tôi nghĩ rằng ông xứng đáng để được gọi bằng những danh hiệu cao sang đó. Nguyễn Nguyên Bảy ý thức sâu sắc rằng: “Thơ ca hiện diện như một chiếc gương, soi vào đấy hiện lên vẹn toàn gương mặt thi nhân. Hồng mặt gương hay xám ngoét mặt gương, thi nhân tự thức”.
Tôi buồn cho ông, buồn cho những người cùng thời với ông vì không gặp thời mà phải lận đận với nghiệp cầm bút. Tôi cũng thực sự khâm phục, kính trọng Nguyễn Nguyên Bảy bởi sự khiêm tốn, thẳng thắn, cương trực; sẵn sàng chịu “phạt” để giữ vững lập trường, để sống và chết với văn chương một cách thanh sạch. Để khỏi phải hổ thẹn với lương tâm và trách nhiệm của một người cầm bút chân chính. “Muốn sống cho thơ, duy nhất một con đường nín lặng mà yêu thơ, mà chép thơ, và chấp nhận một nghiệp dư, mà góp tiếng thơ cho yêu mến đồng bào, cho ngoại sử của non sông”. Trong bài Tự thuật tội lỗi, nhà thơ kể lại trong sự đau đớn quặn lòng: /Có một thứ luật pháp/ Chép ra từ miệng quan/ Có một thứ luật pháp/ Không cần xử cần giam/ Có một thứ luật pháp/ Tra khảo bằng phiếu tem/ Có một thứ luật pháp/ Sống là tự chết mòn /Tôi phạm tội trẻ con/ Luận Kiều thời chinh chiến/ Biết phận mình ong kiến/ Chẳng dám trách miệng quan/ Cố lùa vào nỗi nhục/ Gối tình ôm sát ngực/ Cố đừng mòn sống ơi…/
Nguyễn Nguyên Bảy là người lặng lẽ sống, lặng lẽ viết, chuyên cần, chăm chỉ khâu gió dệt nắng tưởng như mơ hồ..Ông là một người am tường chữ nghĩa, người có những hiểu biết sâu sắc về thơ. Tôi thích nhất cách mà Nguyễn Nguyên Bảy gọi những bài bình bằng một cái tên khác cách gọi thông thường đó là “Đò đưa”, cách gọi này vừa quen, vừa lạ, vừa giản dị khiêm nhường nhưng nó cũng hàm chứa ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Phải chăng, cuộc đời cầm bút với những trải nghiệm thực tế đã giúp ông đưa ra những cách gọi mới, sát đúng với thực tế như vậy.
Đọc những gì Nguyễn Nguyên Bảy viết ta có thể khẳng định những trang thơ của ông chính là những trang đời. Dù ông viết về đề tài, chủ đề gì đi chăng nữa nó cũng thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân ái - “da diết nỗi đời, nỗi người, nỗi nhân tình thế thái. Cuộc đời ông đã đi và trải qua nhiều thăng trầm, tất cả không sao xóa được, được tạo dựng nên bằng những lớp kỷ niệm. Những kỷ niệm ấy lần lượt sống dậy trong thơ, nó trở thành nỗi nhớ niềm thương và cả những đau xót nghẹn ngào về những tháng năm bần hàn, cơ cực phải làm nhiều nghề để sinh sống. Khi gia đình thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy gặp nạn vì thơ. Họ đành phải rời Hà Nội - mảnh đất mẹ, nơi chôn nhau cắt rốn vào Nam với bao ức uất. Nhưng may mà vợ chồng ông vẫn một mực tin tưởng, yêu đời và nghĩ rằng sẽ có một ngày mai tươi sáng, một ngày nào đó trắng đen sẽ rõ ràng. Tất cả mọi thứ sẽ trở về giá trị thực như nó vốn có. Vợ chồng ông sẽ được minh oan, sẽ sống cuộc đời vui, có ý nghĩa ở những ngày tháng còn lại phía trước. “Niềm tin ấy son sắt lòng tôi và tôi đi theo niềm tin ấy, không sợ cam go, không vướng muộn phiền. Và thơ tôi ra đời như thế, đều đặn, tự nhiên mà sung sướng với đời” (Nguyễn Nguyên Bảy)
Dù mấy chục năm xa đất Bắc, xa Hà Nội nhưng trong tâm can vợ chồng ông vẫn luôn hướng về nơi đất Bắc, với một nỗi nhớ cồn cào, da diết. Tất cả cả trở thành máu thịt, niềm yêu thương vô bờ.

Dòng sông thơ mộng, trữ tình mang đậm hồn quê xuất hiện nhiều lần trong thơ Nguyễn Nguyên Bảy. Dòng sông đã in đậm tình yêu quê hương và sự sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ chính là con sông Hồng (sông Cái) - một con sông gắn liền với bao ký ức niềm thương và chở đầy huyền thoại. Phải chăng cũng chính từ con sông Hồng phù sa đỏ nặng này nó tạo nên mạch nguồn cảm xúc dạt dào vô tận cho ông.

/Anh ngụp lặn quẫy đùa thời trai trẻ/ Những chiều sông Cái quê hương/ Nhớ tuần trăng mật chẳng bình thường/ Tình xém chìm trong bể đời nước mắt/ Hỡi quá khứ với bao nhiêu mặn chát/ Ngươi cũng là vị biển của tình yêu
/ (Biển đổ chiều)
/ Sông Hồng sóng vỗ lửa thiêng/ Một con đò đắm mẹ mềm cỏ trôi
/…/ Sông Hồng xác mẹ giạt trôi/ Sông ni dìm chết bao người mẹ ta/ (Qua sông Hiền Lương)
Sau mấy chục năm xa cách, có dịp trở lại con sông này nhà thơ xúc động giãi bày

/Tôi đã yêu một dòng sông/ Năm mươi năm rồi dòng sông có biết?/ Lúc ấy tóc tôi và tóc mình cùng xanh ngọt/ Mà giờ đều trắng hoa lau
/ (Gặp lại dòng sông)
Nỗi buồn miên man chảy trong thơ ông - ông buồn vì nhiều lẽ: buồn vì cuộc sống áo cơm, vì chiến tranh đau thương tang tóc, buồn vì những bất công ngang trái của cuộc đời, buồn vì ước nguyện làm người chưa trọn. Nên thơ ông dày đặc những thanh âm buồn.

Hình ảnh người mẹ, người cha những năm sơ tán được nhà thơ ghi lại trong sự ngậm ngùi:

Mẹ từ khu sơ tán trở về nhà/ Đi tắt đường ao rau muống/ Trăng hạ tuần lạnh mỏng/ Không soi được bóng mẹ xiêu/ Mấy hôm nay Hà Nội báo động nhiều/ Cha chẳng bao giờ chịu xuống hầm trú ẩn/ Cơm nguội muối rang mặn đắng/ Làm sao nuốt nổi chồng ơi…

/../Súng nhỏ súng to nổ rát phía bờ sông/ Cha thầm thào điều gì mẹ nghe không rõ/ Vài bóng người chạy ngang cửa sổ/ Gọi cha ra đê Sơn Tinh/ Nước lên to đỏ mắt thủy thần/ Nổ một trái bom là đê vỡ/ Mẹ bật hầm chạy ra đê bươn bả/ Bao nhiêu người nằm che thân đê…
/ (Ký ức thư)
Mẹ là thiêng liêng, là kỳ diệu, là tuyệt vời nhất:

Mặt trăng không sinh được con người/ Mặt trời không sinh được con người/ Sinh ra người là mẹ muôn vàn yêu quý của con/ Ai nói lời cảm tạ thần linh/ Chớ quên mẹ muôn vàn yêu quý của con/…/
 Hiểu tất cả mọi điều là mẹ/ Đất nghiêng tán lũ vào đồng/ Ở đâu núi chảy ra lửa chết/ Hai bàn tay mẹ làm lành lại hết./ (Nam mô Đất)
Để rồi có lúc thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy bất chợt thấy mẹ hiện về:

/Mẹ lại hiện về lưng còng như trăng
/ Con đâu biết làm gì để lưng mẹ thẳng/Mẹ bảo đừng cười chua khóc đắng/ Cứ làm thơ trăng cho Hằng vỗ về đời/ (Ký ức còn lại)
Có lẽ dưới nấm mộ sâu, người mẹ cũng thấu hiểu cho nỗi lòng đứa con trai yêu quý đang gặp tai ương, nạn kiếp vì thơ trên cõi trần. Vì ngay từ lúc còn nhỏ, mẹ đã từng ve vuốt: Con cái đứa nào cũng rứt ruột đẻ ra/ Nhưng mẹ thương con nhất/ Thương thằng mộng mị thơ ca. Vốn yêu con, hiểu con nên người mẹ hiện về đã an ủi và căn dặn: “đừng cười chua khóc đắng” mà “Cứ làm thơ trăng cho Hằng vỗ về đời”.

Thi sĩ còn nhớ như in về ngày đưa tang mẹ:

/Đám tang mẹ vắng hai người con trai/ Anh trai trưởng tạ người đến phúng/ Cháu đích tôn tạ người đến phúng/ Người con trai thứ tư ngồi sau quan tài/ Rượu trắng lưng chai/ Nắn nót từng ly mời mẹ/../

Nhà thơ nghẹn ngào, tự trách mình vì chưa làm được gì để giúp mẹ mà chỉ toàn gây bao đau khổ, muộn phiền:

Thời tôi sống đã gây cho mẹ biết bao đau khổ/ Chết rồi mẹ vẫn thương tôi/ Biết bao giờ tôi lại được gặp người/ Để đền đáp yêu thương của mẹ/ Tôi đã sống một đời người hoang phí…

Nhận thức được điều đó, vốn là một người con hiếu nghĩa, nặng tình với mẹ nên Nguyễn Nguyên Bảy đã: / Lạy Càn Khôn, tôi nguyện sống tu thân theo mẹ/ Sau trăm tuổi xin cho tôi về làm mùa tứ quí/ Để hầu hạ mẹ tôi…(Mùa tứ quí)

Ước nguyện “làm mùa tứ quí”, đấy là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Ở thế giới bên kia người mẹ cũng cảm thấy ấm lòng vì có đứa con trai tuyệt vời đến vậy!.
Bài thơ dài Lời nghĩa trang là bài thơ tạo nên sự ám ảnh, day dứt, gây thổn thức và cấu véo tâm can người đọc:

/Chúng tôi đã thành cát bụi cả rồi
/  Những người con gái con trai thiết tha yêu đất nước/ Tôi hy sinh mùa thu 45/ Đòn gánh phá kho thóc/ Tôi hy sinh trong chiến dịch Thu Đông/ Áo trấn thủ vợ may sũng máu/ Tôi hy sinh năm 50 Biên Giới/ Trong reo hò đồng đội xung phong/ Tôi hy sinh giữ khúc điệu hào hùng/ Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa/ Tôi hy sinh khi nhận thấy ngọn cờ/ Bay phần phật trên nóc hầm Đờ cát/…/
/../Tôi hy sinh những ngày cuồng sát
/ Núi sông chia cắt Hiền Lương/ Tôi hy sinh ngoài địa ngục Côn Sơn/ Lưng chằng chịt lằn roi cá đuối/ Tôi hy sinh những ngày 59 luật 10 máy chém kéo lê/ Tôi hy sinh trong tức nước vỡ bờ/Cái sống đứng lên Đồng Khởi/.../
/Chúng tôi hy sinh trăm ngàn cách khác nhau
/ Người còn nguyên hài cốt/Người chỉ là tờ báo tử mầu xanh/ Chúng tôi hy sinh không nhớ thời gian/Non sông ba chục năm loạn lạc/ Chúng tôi chết khắp mọi miền đất nước/Rừng dài biển thẳm non cao/ Chúng tôi người vừa tân hôn/ Người trầu cau mới dạm/ Người đã có con dâu con rể/ Cha vượt sóng con băng rừng/Chúng tôi chết nhớ triền đê/ Chết vọng về đồng bể/ Chết lang thang quay hồn về núi/ Tìm suối chảy ra sông/ Tất cả chúng tôi không thể già hơn/ Mộ đời cỏ mọc xuân sang/ Chúng tôi hy sinh người không lời trăng trối/ Người nói gọi đôi câu/ Có ai mang theo gì đâu/ Ngoài bóng hình đất nước/…/
Đó là lời của những linh hồn đã hy sinh vì sự nghiệp cao cả của cuộc đời này, lời cảm tạ sâu sắc của những người đang sống đối với những người đã ngã xuống cho Tổ quốc, lời nhắc nhớ về ý thức trách nhiệm của những người đang sống hôm nay. Phải sống chết thế nào cho phải phép. Điệp câu: “Chúng tôi đã thành cát bụi cả rồi/ Những người con gái con trai thiết tha yêu đất nước
“Không làng xã nào không xây dựng nghĩa trang
/ Không thị thành nào không xây dựng nghĩa trang”- Thảm họa của chiến tranh cực kỳ khủng khiếp! Nhưng cái đau khổ nhất mà bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong ký ức, xiết chặt tâm hồn người thời hậu chiến. /Xin người sống nhớ cho/ Chết là điều duy nhất tiếc/ Đừng để chúng tôi tiếc mình chết phí/ Máu nhuôm cờ phải mãi thiêng liêng/..Thơ thực sự đã vỡ òa lời trăng trối.

Nguyễn Nguyên Bảy cũng dành những vần thơ nghe ai oán để nói về Nguyễn Du, về Thúy Kiều, về Đạm Tiên, Hằng Nga, Trương Chi, Từ Thức, Mỵ Nương, về thánh thơ Cao Bá Quát… khơi gợi nơi người đọc bao điều trắc ẩn về lẽ sống, niềm tin, cả những chiêm nghiệm, những suy ngẫm sâu sắc về thế sự nhân sinh…

Nạn ách vì thơ và sự suy ngẫm về một thời đã qua - Trong bài Ru cháu giống ai gợi lên cho người đọc bao nỗi niềm: Cháu đừng giống ông/ Ăn thơ ăn báo/ Cháu đừng giống bà/ Ăn cháo ăn ngô… / Ông cười ướt mắt/ Nhìn trời mênh mông.

Lời trò chuyện, lời căn dặn của ông đối với cháu nghe sao mà xót xa. Ông cười để cho cháu vui nhưng thực ra là ông đang khóc: “Ông cười ướt mắt”. Có lẽ đứa cháu còn quá nhỏ nó chưa hiểu và chưa nhận ra vì sao ông lại dặn cháu như thế. Nhưng tôi tin rằng, vào một ngày khi đứa cháu ấy đã lớn, cháu sẽ hiểu rõ vì sao ông lại dặn những lời gan ruột như vậy.

Có lẽ người mà thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy dành những tình cảm đặc biệt nhất đó là người vợ- người bạn đời- thi sĩ Lý Phương Liên. Người đã cùng ông gánh chịu bao niềm đau, bao ghềnh thác, bão giông của cuộc đời. Có nhiều bài thơ ông viết về bà, nói về bà như là lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất. Nguyễn Nguyên Bảy có hẳn một tập thơ để tặng vợ, đó là tập 99 khúc tặng Liên (Nhà xuất bản Văn học, 2012). Khi đọc tập thơ này, nhà thơ Nguyễn Minh Khiêm nhận định: “Mới. Lạ. Mở. Dạt dào cảm hứng. Ý tứ mênh mang. Chữ như mây vỡ. Rất thực mà ảo. Rất ảo mà thực. Tình chắp cánh cho trí bay lên. Trí làm cho tình găm lòng người ở lại. Ông viết như mê. Ông viết như say. Ông viết như không. Ông viết như chơi. Không khuôn mẫu. Không lặp lại. Biến hóa. Sáng tạo. Sáng tạo mà không cứng. Nhuần nhuyễn. Đầy chất thơ. Đầy chất thi sĩ…

Đọc 99 khúc tặng Liên, bạn đọc sẽ nhận thấy có một thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy rất mực tài hoa, lãng mạn nhưng cũng vô cùng thực tế và sâu sắc. Nhà thơ cho rằng, việc ông gặp Lý Phương Liên và kết duyên chồng vợ, đó có lẽ là duyên số. Ông ví von: 

/
Chúng tôi chỉ là đôi bồ câu/ Không biết véo von chỉ biết gù/ Chim vợ gù giọng thủy/ Chim chồng gù giọng thổ…/
/Tiếng gù bồ câu không có lời than thở/ Công danh là chuyện mưa rào/ Mưa rào bồ câu không xuống sân nhặt thóc/ Đói khổ là chuyện ngập lụt/ Bồ câu biết lưới cá câu tôm/ Trong tiếng gù bồ câu chỉ có lời tình/ Vợ chồng như đất và nước/ Khắc này là khắc tương sinh/ Anh nguyện yêu em trọn một đời tình
/ (Tiếng gù bồ câu trống)
Trước cuộc đời đầy giông bão, nhiều thăng trầm, chiến tranh loạn lạc, hai con người ấy vẫn một lòng một dạ sống tình nghĩa, thủy chung:

/ Này bồ câu trống em gọi là chồng/ Giữa thời bom rơi đạn nổ/ Mà anh muốn cưới tình/ Cưới tình thời chiến tranh phải thề không được chết/ Trống mái không con nào được chết/ Trước khi tình đầu bạc răng long
/ (Tiếng gù bồ câu mái)
Tận trong sâu thẳm con tim mình, ông bày tỏ sự biết ơn chân thành nhất đến người con gái họ Lý kia:
/ Cho anh lạy tạ tình ta
/ Tạ ơn em tiếng oa oa con chào/ Bao nhiêu sung sướng nghẹn ngào/ Đôi ta gieo hạt máu vào nhân gian/ (Thơ tạ)

Đọc thơ ông, người ta sẽ nhận thấy đây là một nhà thơ, một hồn thơ, một giọng thơ có nhiều điều khác biệt. Sở dĩ tôi khẳng định là khác biệt vì nhiều lẽ.Với  Nguyễn Nguyên Bảy thơ đã trở thành lẽ sống, niềm tin bất diệt. Ông đã có thơ từ những năm 60,70 của thế kỉ trước, ông viết nhiều và viết đều đặn. Những bài thơ của ông dù được đăng báo hay không, dù được khen hay chê nhà thơ vẫn coi đó là những đứa con tinh thần của mình dứt ruột đẻ ra. Ông lưu giữ đến ngày hôm nay những sáng tác của những năm tháng khổ đau, đày ải, những năm tháng loạn ly do khói lửa chiến tranh… Nếu không phải là người “dũng cảm”, sẵn sàng sống chết với văn chương, coi văn chương như là đức tin tôn giáo thì chắc chắn vợ chồng ông đã bỏ cuộc. May thay điều đó đã không xảy ra. Bạn đọc hôm nay có được cơ hội để thưởng thức những bài thơ, câu thơ hay của đôi vợ chồng thi sĩ tài hoa này.
Tôi rất thích mấy câu thơ trong bài Gặp mừng, được viết vào mùa xuân năm 1975:
/ Anh đã cùng thơ đi khắp những miền xa
/ Tưởng tượng những địa đàng ẩn nấp/ Anh chẳng dám tin ngày hôm nay có thật/ Giữa Sài Gòn thong thả du ca/
Đó là niềm vui sướng, hân hoan của nhà thơ vì đất nước đã được hoàn toàn giải phóng, Bắc- Nam đã được sum họp một nhà. Cũng từ đây mọi điều sẽ khác, thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy có điều kiện để “thong thả du ca”.

Ngôn ngữ là nguyên liệu duy nhất của nghệ thuật văn chương. Nó là sự chắc lọc tinh khiết tạo nên vẻ đẹp quyến rũ cho tác phẩm nghệ thuật. Trong sáng tác của mình Nguyễn Nguyên Bảy đã vận dụng sáng tạo trong việc lựa chọn và kết hợp từ ngữ tạo nên những hình ảnh thơ độc đáo:
Gái tầm tang da bóc trứng gà
/ Lưng ong cong mềm khung cửi/ (Mười rằm mồng một)

Mở lòng mà đón ban mai
/ Yếm trăng buộc lại thiên thai hẹn chiều/ (Ban mai)
Thả mình phơi trong đỏ biển chiều
/ Anh theo sóng cắn mềm bờ cát/ (Biển đổ chiều)
Con biết ở cõi trời
/ Mẹ muốn khóc cũng không thể khóc/ Vì thế ở cõi người/Ngày ngày con đem tiếng khóc mẹ ra phơi/ (Mẹ khóc)
 Hà Nội rạng đông/ Máu đã chảy lên thành Quả Mặt Trời/ (Quả Mặt Trời)

/…/
Thơ ông giàu có về hình ảnh. Hình ảnh này gọi hình ảnh kia. Hình ảnh chồng lợp lên nhau, giao thoa nhau. Một tầng. Hai tầng. Nhiều tầng. Câu chữ sóng động. Sự biểu cảm phong phú. Đa thanh. Đa sắc… Cách viết của ông không giống ai. Không gồng lên. Không cố tạo khác biệt. Ấy thế mà trộn vào đâu cũng không lẫn…” (Nguyễn Minh Khiêm).

Ngôn ngữ thơ Nguyễn Nguyên Bảy là thứ ngôn ngữ có ma lực. Bởi nhiều từ ngữ ông sử dụng với những giá trị và ngữ nghĩa riêng:

+ Trăng như da ngực trinh tân

Hỏi trăng, trăng đã một lần ai hôn?

+ Gió no thơ phưỡn bụng buồm

Cò đói thơ đứng thả buồn bờ ao

+ Gió kinh thành ngũ sắc hoan ca

+ Bóng đè sông Mê, thuyền neo bến Lú

+ Quốc ca hát đỏ sông Hồng

Nơi ấy là kinh thành cổ tích

+ Phì nhiêu khoan nhặt gù tình…

+ Xóm Hạ Hồi thoang hương sữa lạnh

Hoa từ vú lụa thơm ra

+ Cỏ lau cười lắt lay đầu

Sông lăn tăn sóng thoa bầu vú trăng

...

Khảo sát ngôn ngữ thơ Nguyễn Nguyên Bảy, ta có cách cảm nhận riêng về thơ ông trong sự khám phá thế giới. Nhìn chung Nguyễn Nguyên Bảy bộc lộ một khả năng tưởng tượng phong phú khi tạo dựng các chiều không gian khác nhau.  Mọi không gian trong thơ ông đều được vĩnh viễn hóa, bất tử hóa trong chiều sâu ký ức. Miền ký ức tuổi thơ và những năm tháng khổ đau, nạn ách lần lượt sống dậy trong những trang thơ của người thi sĩ tài hoa này.

Trả lại hết sướng vui nạn ách. Chuyền tay chữ hát xuống thuyền. Thung thăng ngược bến cỏ non…

Thời gian nghe nặng mưa tuôn/ Giọt xối xả chảy, giọt bồn chồn rơi

Tư tưởng và triết lý Phật Giáo được đưa vào thơ, những từ nói về chùa chiền, về Phật, về tu, về nạn kiếp… được đề cập đến nhiều trong thơ ông. Cho thấy ông là người thấm nhuần và hiểu biết sâu sắc về Phật pháp.

… Bể đời khổ sao bể đời vẫn chật?/ … Trí dũng tát cạn được bể lửa/ Dám dâng thân cứu nạn triệu sinh linh/ Sao không tự cứu được mình/ Trước sông Mê bến Lú

Hóa ra con người cũng dễ bị cám dỗ, dễ bị sập bẫy trước đồng tiền và danh lợi? Bằng cách nói hình ảnh: “Sông Mê, bến Lú” gây được ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Viết cho người bạn văn quá cố Trần Hoài Dương, thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy đau đáu rằng: / Dẫu dài đời cũng trăm năm/ Sao chẳng trăm năm nương cửa Phật/ Bể đời khổ sao bể đời vẫn chật/ Nào mấy người vào bể Như Lai/ (Vào chùa)

Thủ pháp ẩn dụ, so sánh, nhân hóa… cũng được nhà thơ sử dụng để tạo ra những tứ thơ bất ngờ, mới lạ, đem lại sắc điệu thẩm mỹ mới trong thơ.

- Ngực buồm no gió thuyền say
/ Anh là gió lộng vun đầy thuyền son/ (Hát không đề)
- Em trói sóng lời ru mềm lắm
/ Mơ hồ buồn sóng lặng lẽ về khơi/ (Viết trên giường bệnh)
- Tôi đổ tuổi tác vào nồi ký ức
/ Tóc lau ngồi nín cời than/ (Ký ức còn lại)
- Trăng vàng rơi qua kẽ tay
/ Trôi bồng bềnh rồi rơi vào sóng bạc/ (Ca trù mùa thu)
- Nếu em là hạt mưa xuân
/ Anh là chồi biếc uống chầm chậm em/ (Bốn mùa)
- Ly hương ư? Mắt bà heo may
/ Lưng còng ngồi se sợi gió/ (Tinh tú ngộ duyên)
- Mới hay trăng sáng thì thầm/ Gió ôm trăng nói gió cầm trăng đi/ (Lời tóc cỏ lau)

/…/

Điều đặc biệt, trong thơ Nguyễn Nguyên Bảy tần số sử dụng điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, xuất hiện dày đặc. Phải chăng đây cũng là điểm mạnh của thơ ông.Thơ Nguyễn Nguyên Bảy giàu ẩn ngữ, mang tính triết luận, nhiều khi gây khó hiểu đối với người tiếp nhận. Vì vậy, đọc thơ ông phải đọc đi đọc lại nhiều lần, vừa đọc vừa ngẫm nghĩ mới thấy được những chân giá trị và ý đồ nghệ thuật mà nhà thơ muốn gửi gắm. Chẳng hạn: chỉ 4 câu trong bài thơ ngắn Chân hương cũng gợi ra bao nhiêu suy nghĩ và đặt ra những vấn đề mang tính triết lý về lẽ sống và cuộc đời:
/ Cháy rồi, cháy hết phần thơm

Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi

Rồi mầu phẩm nhuộm phai  đi

Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương../

Thơ Nguyễn Nguyên Bảy là thơ của một con người từng trải, một con người đã từng chứng kiến bao thăng trầm dâu bể của lịch sử dân tộc, gánh chịu bao đau khổ, điều tiếng không tốt, có lúc bị quy kết chuyện này chuyện khác và phải chịu những hệ lụy vì thơ. Tai nạn nghề nghiệp - gặp cơn thác dữ về thơ năm 1970 từ người vợ Lý Phương Liên và những phát ngôn về thơ của ông đã bị đánh “lên bờ xuống ruộng”. Nhưng hai con người ấy, hai tâm hồn ấy, hai thi sĩ ấy vẫn miệt mài, bền bĩ, lặng lẽ “nhả thơ” trong bóng tối của đời mình.

Đọc thơ Nguyễn Nguyên Bảy, nhà thơ Hoàng Xuân Họa cho rằng: “Thế giới thơ Nguyễn Nguyên Bảy là thế giới của cái đẹp, cái đẹp những dòng sông, tình yêu, cuộc sống; nhiều vấn đề của cuộc sống được anh khai thác thả vào thơ để mong người đời hướng thiện”.

Thơ Nguyễn Nguyên Bảy là thơ đáng để đọc. Nhìn trên tổng thể, thơ ông viết có rất nhiều bài, nhiều câu thơ, nhiều hình ảnh thơ đặc sắc. Thơ ông không màu mè, hoa lá nhưng có chỗ ông rất sáng tạo trong việc tạo dựng các hình ảnh, kết hợp và tạo ra nhiều từ ngữ lạ và độc đáo với một trình độ tư duy nghệ thuật mới.

Nguyễn Nguyên Bảy là một nhà thơ lặng lẽ nhưng say mê làm mới và sáng tạo hình thức thơ ca trữ tình hiện đại. Ông đem lại cho ngôn ngữ thơ những tín hiệu thẩm mỹ mới về khả năng dung chứa và phản ánh hiện thực. Ông kế thừa và làm mới thơ trên nhiều phương diện. Vận dụng linh hoạt những thủ pháp nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, điệp từ, điệp câu … trong cấu trúc hình thức tác phẩm.

Tôi không dám lạm bàn về thơ Nguyễn Nguyên Bảy. Nhưng với tấm lòng của một người yêu văn chương, yêu thích thơ - với khả năng và sự hiểu biết có hạn tôi chỉ nêu lên vài cảm nhận của riêng mình như thế về thơ ông. Bởi tôi nhận thấy rằng: thơ Nguyễn Nguyên Bảy - đúng như con người của ông và những phát ngôn của ông: Thơ là thơ. Tôi đặc biệt ấn tượng và thích kiểu loại thơ đó. Thơ là đời, là người, là cuộc sống như nó vốn có. Vì thế thơ Nguyễn Nguyên Bảy không cao giọng, không hô hào, không khẩu hiệu… mà nó thật như những gì vốn có của cuộc sống, của cuộc đời. “Đời tự nhiên đã muôn mầu muôn sắc, cớ chi thơ không muôn sắc ngàn mầu. Vấn đề là trước cảnh, trước người, trước sự, trước việc ấy lòng ta buồn hay lòng ta vui? Thành thực với chính mình, thì buồn vui gì cũng tuôn chảy ra vần điệu, và đó chính là thơ… Thành thực với chính mình ắt nhận ra tình yêu, tình thích, tình giận, tình thù và ngay cả những sục sôi phẫn nộ. Muốn vậy, phải cố mà tránh những khuôn mẫu nghĩ, những thói bầy đàn lười biếng, những dụ dỗ của danh tiền tầm thường, để mặc vội vã cho ngôn từ tấm áo “bảo là thơ” để tụng ca minh họa, để trăm bài thơ giống ngàn bài thơ, một giọng, một điệu, thậm chí một vần đều như đúc ra từ một khuôn thơ, thành thứ tân văn vần (không phải văn vần mới, vì văn vần mới hàm chứa một sự sáng tạo)… Thiếu gì những chuyên nghiệp thi sĩ khai sinh một rừng biển thơ toàn những lời hô hào rỗng tuyếch, toàn những lời diễn ca chính sách, toàn những lời tụng ca, những dạy dỗ và tôn vinh những giả dối mọn hèn. Thế nên, thơ của họ làm sao vươn tới tầm vĩ đại của dân tộc đổ máu dằng dặc những năm dài giữ nước, của khổ nghèo nhân dân thắt lưng buộc bụng cho tiền phương giết giặc. Thế nên, thời tôi sống, nào được mấy trang thơ chói lóa trả ơn cho những hy sinh, những đau đớn khổ cực của Mẹ Việt Nam Anh Hùng”. Đó là những lời sẻ chia đầy tâm huyết của thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy.

Hãy để thời gian, công chúng thưởng thức và những nhà chuyên môn đánh giá, khai mở những tầng giá trị và ý nghĩa của thơ ông. Riêng tôi, tôi thật sự kính trọng, khâm phục tài năng và phẩm hạnh của một người cầm bút như ông. Nguyễn Nguyên Bảy, Thơ là Thơ…


Nguyễn Văn Hòa, đò đưa
4.2013

VƯỜN NĂM NHÀ

thơ. nguyễn nguyên bảy

ĐÒ CỎ HOA
Khúc giã bạn này tách bến đò đưa


Mời các liền chị liền anh lính xuống đò
Nước mình vừa trải dài dằng dặc chiến tranh
Xin đừng mang theo súng
Nếu mang vui lòng đừng nạp đạn
Xin để súng nằm trên cỏ
Xin đừng mang túi giỏ hận thù
Nếu mang vui lòng gửi vào kho hoa
Mời các liền chị liền anh vùng sâu vùng xa
Thơ bông trái thơm ngát ngao rừng núi
Thơ cuốc cầy gọi cá câu tôm
Nôm na thơ hoa thơ cỏ
Xin các liền anh em nhường chỗ
Kính mời Du (*) lão xuống đò
Mẹ Huyện (*), Mẹ Hương (*) đưa tay con đỡ..
Đò nhỏ cỏ hoa tách bến chơi thơ
Liền áo đỏ thơ lời mời trầu
Cau non bổ tư trầu têm lá tẻ
Liền áo the mở lòng chia sẻ
Ôi a chia sẻ yếm sồi
Sông cười sóng nước mang mang..
(*) Nguyễn Du/ Bà Huyện Thanh Quan/ Hồ Xuân Hương/


1. HOA TÓC

Xin tóc chầm chậm nở hoa
Thời xanh bạc trắng đòi ta bồi thường
Tóc cười dỗ nắng hoàng hôn
Làm sao nhuộm được mất còn về xanh?

Sài Gòn, 7.2015


2. CÒ HÁT TRÀNG SINH

Chúng mình hát cùng hè đi
Đôi mươi cò chẳng sá gì bão giông
Lướt qua bảy sắc cầu vồng
Mồ hôi nước mắt hiện trong mỏ cười
Bút lau, súng chuối quàng vai
Sáo miệng thổi đỏ tượng đài phù du

Chúng mình hát trong hương thu
Lội sông dặn lội từ từ nhé yêu
Mặc bầy nông vạc hò reo
Mặc lá mở ngực cuốn theo vàng về
Mặc phần phật gió hả hê
Thổi nắng cho cỏ sông quê may buồm..

Thế rồi rét mướt sang đông
Giật mình cò hỏi bềnh bồng về đâu
Chúng mình về đâu?
Mưa dầm đáp muốn về đâu thì về
Chân men theo cỏ triền đê
Gặp hoa vườn cải cặp kè nắng xuân

Thế là về xuân
Về xuân cò đã đến gần gió mây..
Xòe cánh bạc trắng xóa tay
Trắng cánh phủ dưới một bầy cháu con
Cớ chi để cháu con buồn
Cò xòe tay múa khúc Tràng Sinh hoa..

Hà Nội, 2014


3. TRƯỚC MỘ NGUYỄN DU


Thường như mọi nấm mộ thôi
Chênh chênh về phía mặt trời soi gương
Cát lầm bụi suốt dọc đường
Lại rào rạt cát từ phương gió vào
Gió reo trong tiếng phi lao
Người cô đơn đến lời chào cũng không..

Hư vô đâu chỗ tận cùng?
Gió cuốn khói cháy phừng phừng lửa nhang
Hỏi xem đâu xóm đâu làng
Nghèo chi mà để mộ nằm tang thương
Mới hay cái kiếp đoạn trường
Cởi ra chưa hết lại luồn thêm dây
Mượn Kiều tỏ kiếp trả vay
Thân dù cát bụi
Chẵng thể quay quắt hồn
Trong như ngọc sáng như gương
Hồn hiện trong giọt đàn buồn đàn say
Phải hồn về
Khói nhang bay?
Ta tà bóng xế cõi tây hồn về..

Hồn về hỏi xóm hỏi quê
Sau tái hợp Kiều hiện giờ ở đâu?

Còn than thân phận bể dâu
Có tìm mộ Đạm hỏi kiếp sau thế nào?
Thanh cao có được thanh cao
Bể đời đã hết cồn cào sóng chưa?
Kiều ơi,
Sao chẳng dạ thưa
Để hồn vui chút mơ hồ đoàn viên
Ngoài Kiều hồn chẳng hỏi thêm
Phận bán tơ giá họa, phận hèn Giám Sinh
Phận  Bùi, phận Mã ghê kinh
Phận Hồ Tôn Hiến, phận Sở Khanh
Tú Bà..

Đã nguyền chúng chết trong thơ
Quân tàn ác quyết chẳng cho luân hồi
Dè đâu đâu cũng chúng cười
Ngoảnh mặt
Nín lặng
Ngậm ngùi hồn đi..

Hồn đi cỏ lắt lay khô
Thân người gió nắng thẫn thờ heo may
Công danh chuyện ấy xưa nay
Không Kiều
Liệu có mai này Nguyễn Du?
Đã mang cái nghiệp tài dư
Kê vàng giấc mộng tạ từ nhẹ tênh
Chênh vênh nấm mộ chênh vênh
Mầu cô đơn trải mông mênh cuối trời..

1970


4. GỌI HỒN NGUYỄN TIÊN SINH


Xin hồn hiện về
Năm một ngàn bảy trăm tám chín (1789)
 

Muốn luận tội ta chạy theo Lê Chiêu Thống?
Tiếc là ta không thể thay ngựa trạm
Táng mã vọng theo Ngài
Quan ải Ngài thoát sang rồi
Thoát sang rồi, thưa bệ hạ
Tôi trung không kịp theo cứu giá
Thân đành cự giặc sau lưng
Ta gọi kêu hào mục khắp vùng
Gươm giáo đâu cả rồi gươm giáo
Sét gỉ cũng tôi trung
Ta nuốt mối hờn ta thờ áo mão
Mỏi mong quẻ Phục đáo về
Ngờ đâu đấy là ngày nhà Lê chết hẳn
Quân Quang Trung cho ta niềm kiêu hãnh
Sóng trào quét cuốn giặc Thanh
Nhưng cục hờn Tây Sơn ta khạc ra sao được
Thóc nhà Lê ta ăn, áo nhà Lê ta mặc
Ơn mưa móc ấy giờ đâu?

Xin hồn đừng quá u sầu
Vua Quang Trung cho hồn theo ra Bắc
Tháng sáu mưa rào nắng gắt
Năm một ngàn tám trăm linh hai (1802)


Thôi đừng hỏi khúc bi ai
Thập loại ta đã tế lời chúng sinh
Thương thay hai chữ công danh
Đã lìa ngó ý không đành đoạn tơ
Nào ai học được chữ ngờ

Dây tơ buộc được vật vờ xác thân
Chim hồng khi đã sa chân
Rỉa cành tiếc nhớ mây gần trời xa
Nước dân dân nước hỏi ta
Sênh sang áo mão còn là Du chăng?
Từ quan ta trở về làng
Chép ra khúc ấy đoạn trường mua vui
 

Xin hồn chớ quá ngậm ngùi
Đời Kiều có phải đời Người đó chăng?
 

Ừ, cũng trầm luân
xác thân đã chết ở sông Tiền Đường
Mai hậu khóc suối khóc sông
Thương Kiều lại hóa đem lòng hận ta
Nên ta.., Cầu Phật vớt Kiều
Đưa về đoàn viên Kim Trọng
Để ta được sống
Tôi trung non nước thái hòa..
 
Lửa nhang phụt cháy bao la
Nghe thoang thoang gió biết là hồn thăng
Lời hồn chép lại đôi dòng
Khôn thiêng xin nhận tấm lòng tri ân..


 5. BÓI KIỀU
 
Hai trăm năm và chảy dài vô hạn
Thúy Kiều ơi nàng sống tháng năm dài..
/ Lý Phương Liên/


Tôi bói Kiều xin một chút vui
Thương phận mình phúc mỏng
sao chỉ thấy Tiền Đường vỗ sóng
Hiển hiện đôi môi chon chót Thúy Kiều cười
 

Cay đắng Kiều cay đắng lắm tôi ơi
Cho dẫu Kiều chẳng có hồi đoàn viên Kim Trọng
Kiều vẫn sống tôi ơi!
 

Bể trầm luân ai bằng bể đời Kiều
Đi hết bể trầm luân nàng sống mãi
Tâm trí tôi nụ cười nàng nở nói
Tôi bay trên bể đời giông tố hát nghêu ngao..
 


6. TRƯỚC MỘ ĐẠM TIÊN
 


Nàng xè xè nằm nghe nhang khói
 
 Mát lòng lời thương xót Đạm Tiên
Tội nghiệp mộ lăng xây chìm nổi
Vong giật thót hồn trước biến thiên.


7. TẬP KIỀU 11 KHÚC


1.CẢNH TRONG NHƯ LỌC DƯỚI CẦU 


Trên cầu dạo gót một bầu thiên nhiên
Thắm như hoa cũng phải ghen
Xanh như liễu cũng tự nhiên giận hờn
Tuổi căng lồng lộng như buồm
Thúy Kiều không một nét buồn trên môi
Đời ngon như một trái tươi
Hái lên tay đặt lên môi..thôi là
 
Là thôi thôi những xót xa
Chiếu bạc trải giữa đời hoa gầy sòng
Nghe sao lòng não nuột lòng
Người mà gieo số giữa dòng người đâu
Men tình nhấp giọt chưa lâu
Xanh leo cỏ Đạm gật đầu gọi đi
Phận Kiều thôi có ra gì
Vội chi kiếp trước so bì kiếp sau
Sông đời vắt một thân lau
Buồn vui ai cũng lên cầu mà qua
Thương thay số kiếp đàn bà
Khổ đau hỏi thế nào là khổ đau
Ví von sông rộng bể sâu
Bao nhiêu sóng gió ngụp đầu khổ lên
Thúy Kiều là ảnh Đạm Tiên
Đoạn trường ngật ngưỡng địa thiên ngả cười..



2.ĐỒNG TIỀN LÀ CẠM BẪY ĐỜI 


Công lý nực một trận cười miên man
Đồng tiền tạo lập mưu gian
Hại nhân mua cuộc truy hoan đêm nồng
Đồng tiền nào phải hư không
Tiếng kêu hàng hóa nói trong mơ hồ
Khí bắt tiếp khách nhuốc nhơ
Khi làm con ở ngồi so rung đàn
Xót đau con gái nhà ngoan
Hóa thân lá gió chim ngàn cành reo
Đồng tiền đơm đặt đủ điều
Cho bao nhân nghĩa vẹo xiêu vì tiền
Vận người thành cuộc đỏ đen
Thiêng liêng đất nước bao phen nổi chìm
Đồng tiền lật mặt niềm tin
Ba xu bán bạn bạc nghìn mua quan
Nhân danh lý tưởng lương tâm
Mùi tiền bọc kín vẫn thầm bay ra.. 



3.ĐẠM TIÊN ƠI MỘT HỒN MA 


Đưa đường dẫn lối người ra Tiền Đường
Còn tằm thác vẫn vương tơ
Số đeo theo phận chữ thường quyện nhau
Thực đời cò trắng phau phau
Cớ chi hỏi ảo kiếp sau thế nào?
Cớ chi họa cứ vận vào
Không vận vào nó vẫn vào người ơi
Trời cầm con tạo quay chơi
Kêu ai nấy dạ cuộc chơi hãi hùng
Số đâu có số lạ lùng
Con sãi khắp vùng quét mãi lá đa
Đạm Tiên nào chỉ nấm mồ
Đạm Tiên báo số phận cho thân Kiều..


4.GIANG SƠN MỘT CÕI CỞ REO 


Nhờ Từ nàng trả mọi điều oán ân
Thanh thiên bạch nhật một lần
Hết phường bán thịt lại quân buôn người
Ghê kinh cho lũ con trời
Nhìn mặt mà bắt tanh hôi mùi tiền
Giọng Kiều ngọt đến thản nhiên
Ngọt không một chút Đạm Tiên pha vào
Ngọt nghe đến phải nôn nao
Tiếng sen không chút bùn ao tanh nồng
Tiếng đau nghe rũ sạch không
Tiếng khổ cởi trói mở lòng từ bi
Tiếng nàng trảm
Vẫy hiệu cờ
Máu sao cũng đỏ cho dơ kiếm vàng
Thúy Kiều cười cởi dây oan
Nhìn ba quân
Khóc
Hoan hoan lệ đầm..
 


5.TRANG VUI U U ÂM ÂM 


Phải niềm mơ đã ôm cầm bao lâu
Niềm mơ cởi được khổ đau
Kiếp đời ngư lọ, điểu châu nhốt lồng
Phải có trời, phải có sông
Trời sông không có thì mong ích nào
Ước mơ cánh liệng trên cao
Nào ai thu được gió vào bàn tay
Hồn ma lòe lập từng bầy
Hết làm sao được những tay buôn người
Tú Bà là một đứa thôi
Lâm Tri huyện nhỏ mấy mươi Tú Bà ?
Triều Minh bờ cõi bao la
Mênh mông một cõi tha ma phận người
Triều Thanh ngồi tiếp cuộc chơi
Triều nào từ chối thịt người không ăn ?
Đã sinh làm phận thứ dân
Chớ mong khổ cực chuyển vần sướng vui…
 


6.THÚY KIỀU NÀNG TỚI ĐÂU RỒI


Từ ghế chánh án ra đời thổ dân
Công danh chuyện tựa phù vân
Sơn hà đen đuổm vinh thân được nào
Luận ra cái số ba đào
Cởi ra một mắt thắt vào thêm hai
Với Từ được mấy ngày vui
Đã nghe đổ ập ác loài Hồ Tôn
Cơ đời sụp rũ buổi hôm
Áo thanh lâu lại vận luôn lên mình
Tênh hênh bao xiết ghê kinh
Cái thằng mặt sắt đa tình chùi tay
Ép nàng mặt rạn mày dày
Ván thổ quan phải đóng ngay nên thuyền..



7.THÚY KIỀU ƠI, PHẬN THUYỀN QUYÊN 


Giá toàn đau đớn cho mềm lòng thương
Sao còn bầy đặt án hương
Báo ân báo oán ra tuồng hả hê
Khúc này ngẫm thật tái tê
Luân đâu rồi cũng hồi về nhuốc nhơ
Thơ ngây còn mãi ngây thơ
Uống bao nước dại để chờ ngày khôn ?
Lưỡi quan là lưỡi không xương
Dối thường ngọt lịm, lừa thường tinh ngoan
Cân đai phẩm phục tước quan
Ghế càng cao ắt mưu gian càng nhiều
Lưng dâm để dẫm để trèo
Dẫm mỗi lưng nhấc ghế theo mỗi lần
Thương nàng Kiều quá ngu dân
Tự do đổi lấy vinh thân triều đình
Thịt thơm ngọt miệng yêu tinh
Giang sơn chớp mắt đã thành khói mây
Tiếng đàn nhỏ máu vào dây
Máu này nhúng với bàn tay giết chồng
Thương chồng quên hết sâu nông
Muốn chồng một chức đuôi công diễn trò
Chỉ thương mềm yếu đàn bà
Cồn lòng một nỗi nhớ nhà khôn khuây
Ước mong đoàn tụ sum vầy
Trái nào rụng được xa cây bao giờ..
 


8.NGẮM XEM TÌNH THẬT TÌNH MƠ


Tình nào đáng để cân đo tình nào
Chàng Kim nàng vẫn ước ao
Tiệc hoa chưa kịp dâng trao người tình
Xem ra chuyện ở mây xanh
Chỉ là cái bóng vô danh ngoài đời
Đã lời hẹn biển thề trời
Thăng trầm nào có được lời sẻ san
Với Thúc Sinh tưởng tri âm
Ôi thương hại đến khôn cầm lệ rơi
Khen cho Thúc khéo sắm vai
So trong xã tắc cũng loài Sở Khanh
Thề non hẹn biển rành rành
Mà mặt gặp mặt lạnh tanh mặt cười
Chàng Từ cao cả tót vời
Yêu nàng yêu chính cuộc đời trầm luân
Ra tay phán xử oán ân
Trí hùm vượt bể mây vần vũ trông
Chung chăn chung gối vợ chồng
Phải đâu mèo mả gà đồng giải khuây
Lụy tình tình thắt cổ dây
Chết không nhắm mắt thương thay sơn hà..
 


9.CẢM CẢNH KIỀU NƯỚC MẮT SA 


Dẫu thương chẳng thể buông tha đời nàng
Đã bao đau đớn phũ phàng
Thiếu gì lòng sói dạ lang mà mù
Cứ đem cái thói phù du
Nụ cười khuynh nước mà tru triệt đời
Đàn bà đến thế thì thôi
Sắc tài chi lắm cho trời đất điên
Giết Từ ai tạo tội nên
Nước mắt tội ấy ai quên, hỡi Kiều ?
Thôi đừng làm vẻ mỹ miều
Đừng leo lẻo lưỡi lắm điều mà chi
Giết chồng tay đẫm máu mê
Còn đem tội lỗi tỷ tê tai người
Phải đâu không nỡ dập vùi
Sắc tài đẹp đến rụng rơi bút cầm
Ôi nhẫn tâm chẳng đang tâm
Hai trăm năm tưởng gieo vần hôm qua..
 


10.TIỀN ĐƯỜNG DÒNG CHẢY ÂM U


Kính chào khúc chết giã từ nhân gian
Kính chào khúc chết giải oan
Khúc chết khóc lặng nghe man mác lòng
Khúc chết tạ lỗi giết chồng
Cho đầu Từ thẳng, cho lưng không gù
Mà sao sống lại ?
Thực hư ?
Đạm Tiên ư, Đạm Tiên ư, bẽ bàng..
Hồn ma chung buộc dây oan
Cũng phận bạc phước mà toan độ trì
Cửa thiền mới lạ lung chi
Đã nhân ắt quả đã bi lại hài
Mõ chiếu tiếng gió u ai
Tu là cõi phúc bao người chân tu
Cứu nhân mà bíu hư vô
Lênh đênh sóng cả quàng vơ củi rều
Tay tiên buông vớt nàng Kiều
Lại thêm tay Phật dậy điều nhân sơ
 Khổ đau đến thế đủ chưa
Mà mơ mộng cõi sa mù tòa sen..
 


11.NHẠT PHÈO LÀ CẢNH ĐOÀN VIÊN 


Kim Kiều hội ngộ mở miền phúc sinh
Trang vui nghe giả dối kinh
Nào là phẩm tước phù vinh ngọc ngà
Nào là chăm sóc mẹ cha
Em trai em gái chật nhà cháu con
Xem ra đau đắng chùi trơn
Tranh đời cực nhục sơn son thếp vàng
Thúy Kiều chết
Truyện hết trang
Tích xưa chắt lọc thời gian thành Kiều
Kiều thành một tấm gương treo
Soi vào gương ấy ngộ điều trần gian

1970




8. THANH MINH


Lạy Mẹ, việc non sông thiêng nghiêm vô cùng

Lòng yêu nước già nua e thẹn lời chém gió

Lạy Mẹ, việc xã tắc của muôn dân, trăm họ

Quấy quả Diên Hồng e phạm tội xiềng gông

Lạy Mẹ, con đang quỳ chịu tội ngoài sân..


Tấc đất Mẹ nằm với con là Tổ Quốc
Tấc đất mẹ nằm với con là xã tắc
Tấc đất Mẹ nằm với con là làng quê
Là thân bằng quyến thuộc
Là bài thơ nhân nghĩa đi về..


Lạy Mẹ, cho tay con thanh minh hoang cỏ ngoài vườn
Cho con chuốt sắc từng mắt gai xương rồng ngũ sắc
Cho con đốt lá thời gian xếp phủ cửa thông thiên..
Cho con se nắng se gió thành nhang
Thắp cho mỗi nắng lên, gió lên, Mẹ lại hồn về..


Lạy Mẹ cho con sang thanh minh nhà bên, nhà bên
Chia nén nhang nắng gió cho anh con tử sĩ
Chia nén nhang nắng gió cho bạn con tử sĩ
Chia nén nhang nắng gió cho học trò con tử sĩ..
Âm gian ơi, cứ mỗi nắng lên gió lên lại thức nhé, hồn..


Lạy Mẹ về tha tội cho con
Mẹ ru thanh khí lên đi chân con đã ôm cầm hồn đất
Lời Ru Mẹ tôi, lời ru Mẹ tôi..
Lạy Mẹ ru con chân cứng đá mềm để chân trèo được non, lội được bể
Tay con gieo được chữ, miệng con hát được vần
Mắt con nhìn mặt giặc, mắt con không mù hèn..


Lạy Mẹ, con đang quỳ chịu tội ngoài sân
Xin tha tội cho đứa con thanh minh bất lực
Chỉ còn một lời nguyền gìa nua mở ngực:

Kẻ cướp đất Mẹ nằm, bán đất Mẹ nằm
Phải bước qua xác con!

Sài Gòn, 6.14



9. VỚI SEN


Hút tinh khí bùn mà đúc nên thơm
Nỡ nao ca dao cay đắng thế
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn..(*)
 


10. CỎ HOA


Thương cảm hoa, cỏ nói ra điều bí mật
  Môi gió rất mềm và rất chơi vơi..
Hoa sững sờ chẳng lẽ gió có môi? 


11. LỜI VONG LANG THANG
 

Tôi đã về tới đầu làng
Nơi ngày con đi trống dong cờ mở..
 
Tôi đã về tới thềm nhà mẹ
Ngày con đi cha sợ cả làng cười
Không tiễn con cha vùi nước mắt vào nồi khoai luộc
Nhờ mẹ cõng theo khoai và nước mắt
Nước mắt mẹ tuôn ra từ đâu mà lửa mãi tay con
Đỏ lòm nòng súng..
 

Tôi đã về tới chân giường em
Ngủ đi ngoan cười nụ đi ngoan
Nụ chưa nở hẹn ngày về cười nở..
 

Chẳng dám trách quê hương bạc bẽo
Trống dong cờ mở có lúc
 

Chẳng dám trách mẹ cha bạc bẽo
Không có củ khoai thần để ăn hết chiến tranh
 

Chẳng dám trách em vô tình
Chờ nở nụ cười trôi hết tuổi xuân trôi..
 

Tôi chỉ còn biết tự trách tôi
Sao hứa trở về mà không trở về
 

Cúi đầu tạ tội
Vong tôi bạc bẽo lang thang..
 

Sài Gòn, 2015
 


12. KHAI QUẬT HOÀNG TRIỀU
 

Đất này Hoàng thành Thăng Long
Người du xuân thơ thẩn thẩn thơ..

Vườn xuân đang trong Mùng
Không biết là thời nào vua nào
Chỉ thấy các vua áo vàng, các quan áo đỏ, áo xanh
Dân con áo nâu, áo đen
Dưới nắng luân sinh múa hát..
 

Góc vườn la liệt bánh dầy bánh chưng
Vua truyền đói ăn khát uống
Ba ngày tết được sống no
Nhưng chớ tham lam tắt mắt lộc về nhà
Sau vườn mắt đao không ngủ..
 

Một đức vua (?) đang thơ thẩn thơ
Sang tai người du xuân: Ngươi họ chi?
Đáp: Thưa tôi họ Nguyễn
Lời sang tai: Họ mới, họ mới, họ mới
Sau họ Trần tru di họ Lý ?
Sau họ Lê tru di họ Trần ?
Hay sau tru di Mạc Trịnh ?
Tầng tầng tru di
Trăm họ đông đàn thành Nguyễn ?

Nổi giận vì ngày xuân nhắc chuyện tội ác
Người du xuân bực gắt
Vua đã ma sao thét trảm được người
Thơ bước đi mắt tứa máu

Máu mắt hỏi mây
Mây ngàn năm vẫn bồng bềnh Cờ Lau
Máu mắt hỏi gió
Gió ngàn năm vẫn xanh tóc Bạch Đằng

Chỉ có nắng mỗi ngày già xong lại trẻ
Tích chuyện Hoàng Thành xưa rồi nay
 
Nay rồi xưa
Hoàng Thành khai quật
Lịch sử làm sao chôn?
Áo nâu, áo đen hóa non sông tạc hình trẫm chúa
Bia miệng nhục vinh
Người du xuân bảy mươi tuổi ngẫm tình
 

Một đức vua (?) rời vườn múa hát
Ngắt một bông hoa điều lại gần sang tai
Tết xán lạn thế sao nhà người không vui?

Không đáp nhanh chân theo nắng
Năng quá Ngọ tóc đã muối tiêu
Đang rừng rực đỏ về chiều..
 

Mồng 7 Tết Giáp Ngọ/ 2014


13.
 HÓA VÀNG

Hóa vàng, chào cờ, hết Tết
Sao bỗng nghe thương bạn hát
  Cô đơn như ngọn cờ (*)
  Và lời buồn Trẫm/ Chúa sang tai
  Quả nhân cũng cô đơn, cô đơn như ngọn cờ..
 
Lửa hóa vàng giật mình mỡ nạc
Mới ba ngày xuân nhà nhà sum họp
Cớ chi vừa tiễn Tết đã cô đơn?

Ai trong cõi nhân gian mà không trải cô đơn
Cô đơn em đổ cải vườn
Cô đơn cha mẹ đổ buồm khơi xa
Cô đơn bạn đổ lòng ta
 
Cô đơn ta đổ thật thà vào thơ..
Thương cô đơn trẫm, cô đơn cờ
Cô đơn ấy biết cậy nhờ vai ai?
 
Lửa hóa vàng phựt cháy, phựt cháy
Trì trú lời tránh họa cô đơn 

Người người đều phải tu thân
Thiêng liêng như cờ càng phải tu thân
Quyền uy Trẫm/ Chúa càng phải tu thân
Truyền đời, báo danh cho toàn khắp
Trong cõi cô đơn không chỉ có phật thủ
Còn có vạc dầu..
 

(*) Lời bài hát của Trần Tiến


14. LỬA NGỦ
 


Lửa ngủ trưa lim dim lò
Hai cục than đỏ cất hai vò rượu tăm
Giật mình..Tiếng gìó rơi..thầm
Hương tăm theo mãi giữ cầm người đi..
 


15. LÀNG NƯỚC


Sông Cái chia nhánh còng số tám
Nước khóa làng tôi
Bà nội ví von gọi là làng lều
Ông nội định danh làng nước
 

Mênh mông mút mắt
Những cánh đồng chìm
Những mái nhà chìm
Người nổi trên thuyền nan
 

Ai ngồi trên thuyền cũng hát
Đất này mồ mả cha ông
Cháu con không thể bỏ làng
Lúa xanh bên bồi tre xanh bên lở
 

Thương đất trắng chìm trong lũ
Nhà thuyền kéo đất nổi lên
Đất nổi lại thương thuyền
Thuyền nhớ nước nằm nghe sông hát
 

Bên lở bao nhiêu đất
Bên bồi bồi đất bấy nhiêu
Người không chê làng nghèo
Trải bao đời vẫn còn làng nước. 



16. LỜI ĐIẾU


Bà rằng bà chỉ đẻ ra cô
Bà không sinh ra số phận
 

Bà cho cô gương mặt trung thu
Phận số bắt đôi tai nghễnh ngãng
 

Cô thả trung thu vào nồi canh đắng
Mà và mà húp mà chan
 

Yêu người đồng xa mẹ ép lấy chồng làng
Chồng đi lính được mấy đêm ân ái?
 


Con trai lớn tên Giang thì chết chìm
Con trai nhỏ tên Tỵ thì rắn mổ
 

Hai tám tuổi đã thân góa bụa
Lau mặt trung thu cô đi tìm Kiều
 

Kiều đưa cô đi đâu ở đâu
Mà quy cố hương tóc xóa xóa mắt
 

Cô lại vác vồ ra bãi đập đất
Mồ hôi ướt nắng bảy mươi
 

Hai câu ru lấy hết phận người
Một câu lạy trời một câu van đất
 

Cô ước chết bên lò kéo mật
Kiếp sau xin được ngọt ngon
 

Cô bảo sống chết có chi phải nỉ non
Nỉ non chân vấp bà buồn
 

Bà gọi cô đi vội lắm
Làng hồn đang hội thanh minh
 

Nam mô trời cho cô đừng gặp Đạm Tiên
Đừng biết trước kiếp sau sang tối..
 


17. QUÀ TẶNG CỦA NGUYỄN DU
 

Biết rằng sợi tình
Nhân gian không dứt được
Lại biết rằng sợi tình
Người là tiếng hát
Người là khăn tang
Người chếnh choáng cơn say mờ mắt
Người gặp bão giông
Người khao khát vào bờ..
 

Nên Nguyễn Du không cho Sở Khanh chết
Dù thịt nát xương tan ở pháp trường Kiều
Người tạc hình Sở Khanh vào bia miệng
Quà tặng cho nhân gian..
 

Sở Khanh chải chuốt văn nhân
Tiên Tích Việt lời lời có cánh
Ngựa Truy Phong bên thềm..


18. ĐÀN KIỀU


Nàng gảy cây đàn không đàn
Tung âm thanh vào nắng gió
Điệu lưu thủy hành vân
Chìm trời chiều thanh thanh
 

Nàng ngồi tựa lưng vào đồng xanh
Người hiếu kỳ bu quanh
Nghe tiếng đàn nàng đắm đuối
Giọng hát nàng vang suối
Ánh mắt nàng mệt mỏi
Ấp e thuở nép hoa nhìn Kim Trọng
Tôi độc thoại bàng hoàng
 Nàng không là cô gái điên
Nàng là Vương Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du..
 

Nàng nhìn tôi câu cười mơ hồ
Tay lại tuôn trào lưu thủy hành vân
 
Nàng trước mặt tôi
Trong mắt tôi
Xanh leo âm thanh
Bài ca mời mọc
 Nàng không là cô gái điên
Nàng là Vương Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du..


Nàng vẫn nhìn tôi câu cười mơ hồ
Nàng xinh đẹp thế
Nàng tài hoa thế
Trời đất ghen là thế
Nàng điên là thế
Điệu lưu thủy hành vân
Chìm trời chiều thanh thanh
 

Điệu đàn hình như dứt
Nàng cúi gập mình chào
Tôi hái tặng nàng bong hoa bên đường
Nàng nói lời cảm ơn
Rồi hít hà cười
Rồi chạy múa khuất dần sau công nhà thương..
 

Cô ca sĩ ấy từng một thời ca sĩ
Ai đó nói bên tai giọng buồn
Thằng bán tơ giá họa
 Điệu lưu thủy hành vân
Tôi bất lực bật khóc..
 


19. TẬP KIỀU KHÚC QUA SÔNG


Bỗng nhiên lòng cảm động
Cảm động tỏa vào trăng
Cảm động ngân vào gió
Ngoài thềm nhành hoa nở
Nghe mành buông run run
Vườn khuya
Thẹn tường
Cửa tình muốn mở
Tay mềm nhành liễu rủ
Căng chùng buông dây tơ..
 

Nàng Kiều ngồi đó làm thơ
Bờ bên Kim đã xuống đò tìm sang


Lòng vỗ song lan man
Đò khuya chèo xô động
Một dòng thơ rất mộng
Nguồn từ đâu chảy ra
Trăng trời trôi bao la
Gió trời bay tóc rối
Lo nỗi mình nông nổi
Sao tay còn tìm tay
Sao mắt còn nhẩm đợi
Sao còn phô ngọc ngà
Sao còn ngân đàn lả lơi..
 

Đò sang tình ơi Kiều ơi
Sáng mang mang một vùng trời trăng nguyên
 

Phải đâu từ bỗng nhiên
Trạch(*) lòng tràn ngập thủy
Để cho Sơn(*) tri kỷ
Đắm đuối cõi tình Hàm (*)
Dẹp hết những ngổn ngang
cả nguồn thơ trong trẻo
Buồn vui từ muôn nẻo
Tao ngộ quá bất ngờ
Như âm dương giao thoa
Buồn cảm ra rét mướt
Dù tháng tam đang thu
Vui cảm đêm cuối chạp
Dù trăng đang vào hè..
 

Trách rằng bến Lú sông Mê
Xuống đò mê lú tình về bờ ru..
 

Tay tiên thảo khúc tạ từ
Trao nào dám tiếc
Nhận nào dám quên
Tiếc quên sao gọi là duyên
Sao gọi là tình
Sao gọi là trao
Sao gọi là nhận
Sao gọi là nhân
Sao gọi là đời..
 

Đò trôi, đò trôi, đò trôi
Kim đưa Kiều tới bến đời tri ân.
 
(*) Tên các quẻ dịch   


20. NGHE ĐÀN KIỀU


Buổi so dây vũ dây văn
yêu đương như lửa chụm dần ngọn cao
Buổi đi bước thấp bước cao
Chủ nhà con ở vận vào bình the
Buổi năm  ngón máu đầm đìa

Giết chồng rũ áo ngồi nghe vợ đàn
Buổi nghe hội ngộ vang lan
Tay tiên kể với tiếng đàn nhức nhôi
 

Đàn Kiều bốn khúc buồn vui
Khúc nào cũng tự suối đời chảy ra
Khou1c nghe tiếng Bĩ(*) khoan hòa
Khúc nghe tiếng Thái(*) lái qua bão bùng
Người đàn ngồi núi tay rung
Nhặt khoan không một nhịp chùng dây tơ
Người đàn tạc chết vào thơ
Bây giờ và chẳng bao giờ có ai..
 

Vui buồn gì cũng khoan thai
Khoan thai thắp lửa bi ai cháy lòng
Vui buồn sắc sắc không không
Sắc không không sắc ở trong mỗi người
Chợt người thầm gọi Kiều ơi
Tiếng đàn đáp lại nghe vơi vợi hồn
Ngẫm trong cuộc sống chon von
Sướng vui buồn khổ lẽ thường người ơi..
 


21. NGỰA TRUYỆN KIỀU

Nghiêng mình chào tuổi sáu mươi (*)
Nhạc vàng gợi nhớ một thời đạp thanh
Nhìn hoài nô nức yến oanh
Cưa sừng bước nghé xuất hành du xuân
Ngưa thơ gõ vó tần ngần
Xuân mơn mởn cỏ non gần xanh xa

Ngẩn ngơ hỏi bong người xưa
Nắng non ép vẫy ơ thờ dưới hoa
Một đời lặn lội cùng ta
Đời ta có đáng để mà ngựa thương
Cớ sao hỏi thế cho buồn
Người không mặt ngựa thơ nương tình người
 

Mải nhìn lá gió cỏ trời
Giật mình ngựa hí một lời chào nhau
Ngỡ là đã chết từ lâu
Mày rầu nhẵn nhụi vó câu dập dồn
Vẫn nghề bán phấn buôn hương
Vẫn mang họ Mã để hồn ngựa đau
 

Kìa ai xuống ngựa lên lầu
Vàng giả đeo lóa một mầu trai lơ
Mắt sói ngơ ngác nai tơ
Sở Khanh xưa vẫn lượn lờ thanh cao
Ngựa thơ thẳng ruột thầm thào
Thiếu làm sao được ngọt ngào Sở Khanh
Ai đang nằm nướng sau mành
Đợi mật rót xuống ru vành môi khô
Vuốt bờm dỗ bạn ngựa thơ
Trách ai thì trách trừ cô Thúy Kiều
 

Chợt nghe ran dậy hò reo
Có người chết đứng ngưa nheo mắt già
Vượt bao quan ải xông pha
Cớ sao chết ải đàn bà hùm ơi

Ngựa thơ ngậm một tràng cười
Ra sông mượn nước rửa lời mỉa mai
 

Giữa đồng chơ chỏng xe ai
Xe quan tồng đốc hết thời về quê

Ngựa không quen nuốt cỏ khô
Giữa đêm bỏ chủ theo phò tân công
Bóng ai như bóng Vương Ông
Đẩy xe chạy thẳng ra sông Tiền Đường..
 

Kìa ai dong ngựa lỏng cương
Kẻ buồn lên ngựa người thương chia bào
Thanh minh sao cỏ xanh xao
Trăng thề xẻ nửa để hao gối gầy
Năm canh hỏi chóng hay chầy
Tháng năm gom được mấy ngày cho yêu
Người thương nép cửa trông theo
Kẻ buồn ngoái lại bao nhiêu dùng dằng
Cắn lời quan họ chặt răng
Cam chịu niêm luật buộc chằng câu ca
Trái ngang tình chẳng phôi pha
Tay yêu nào đợi tạ tòa Lâm Truy
Kiếp này chửa vẹn câu thề
Thúc tôi xin rước nàng về kiếp sau
Ngựa thơ thơ thẩn trên cầu
Mai vàng chói lói một mầu nắng xuân..
 

Nghiêng mình chào tuổi sáu mươi (*)
Sài Gòn  6.1. 2000



22. KIẾU RẰNG
 


Kiều rằng rằng đã là yêu
Thì đừng vặn vẹo bao nhiêu cách tình
 

Kiều rằng rằng một chữ trinh
Nghĩ cho cùng cũng do tình họa ra
 

Kiều rằng rằng tự sau xưa
Tình yêu biết thế nào là thanh cao
 

Kiều rằng tiếc chẳng dâng trao
Để khi trinh ố thương dào dạt trinh
 

Kiều rằng lỗi phải tại mình
Vườn khuya tóc bạc nguộm tình thời xanh..
 


23. KHÚC SANG TAI Ở ĐỀN GIẢI OAN 

Gửi Thày giáo Hoàng Đạo Chúc
 

Thả thơ bay lên giọt khóc bà (*)
Giọt khóc hóa vào sông Oan
Sông Oan trong mây sông Oan không có người
Chỉ có gió hát lời sang tai..

Đã mấy năm nay bà Lộ không lai vãng cửa Trời
Bà ngự về cửa Đất
Nơi nhân gian xây cho bà Đền Giải Oan (*)
 

Ai đời có chuyện rắn độc
Tu luyện thành mỹ nữ trăng non
Bán chiếu gon
Tây Hồ buổi mai run rẩy gió xuân tình
Vú cau lụa yếm
Lưỡi thơ

Lưỡi thơ say thốc tháo đấng Trãi
Vú cau say nghiêng ngả đấng Vua
Vua chết có oan?
Trảm cửu tộc Trãi có oan?
Oan này Trời biết Đất biết..
 

Bà Lộ sang tai
  Chuyện ta rêu đã phủ ngoài chân mây
  Hôm nay ta lội về đây
 
 Đánh trống cửa Trời
Kêu oan trái cho những người đang sống
Bớ Trời cao Đất rộng
Sao nỡ để cho nhân gian tuyệt vọng

Sống mòn sống nhục chết oan ? 

Giọt khóc trước Đền Giải Oan
Gió đang hát lời sang tai từ cửa Trời
Rền vang cửa đất.. 

Bắc Ninh, Tết 2013, NNB 



24. TẠ LỖI NHỮNG LỜI RU
 

Bớ
 những lời ru các người từ đâu đến ?
Sao không ngồi ngọn tre, ngọn đa
Mà ngồi lòng Bà lòng Mẹ
Đễ những lời ru cất lên thê lương thế
Để những lời ru ai oán thế
Ru nghiêng trưa nắng đứng chịu tang
Ru mớ đêm ướt buồn đất cát
Lời ru không vặt lông (*) cái vạc
Cũng xáo măng cò (*) nước đục nước trong..
 

Nghe tiếng bớ Bà hãi hùng
Hãi hùng Bà nín ru
Câu ru bật khóc
Giọt khóc không nín ru..
Nghe tiếng bớ Mẹ hoảng hơ
Hoảng hơ Mẹ nín ru
Câu ru mở vú
Giọt sữa không nín ru..

Từ òa oa Mẹ nở con ra
Con đã bú tiếng ru vú Mẹ
Vừa bú vừa khóc vừa xin
Mẹ ru con toàn giọt khổ, giọt buồn
Sao mẹ không nêm thêm giọt bùi, giọt ngọt?..
 

Chẳng dám bớ Trời, tôi gọi tôi ơi
Tôi ơi căm cụi viết trường ca quà vợ
(Ngày Em tặng tôi một nụ hoa người)
Tôi năn nỉ Nửa tôi
Đừng ru con bằng những câu ru của Bà, của Mẹ..
Nửa tôi vâng trong nghĩa vâng

  Câu ru không có lỗi, câu ru không có tội
Khổ buồn không bởi tại câu ru
Đời khổ buồn tuôn chảy giọng ru
Anh hãy viết đời ta mắt phúc không mù
Cho em ru con, ru con..

Tôi bỗng thấy trường ca quà tôi trên tay em
Chữ nghĩa bỗng khô cành, rụng lá
Em làm sao ru xanh tốt được cây đời..


Tôi giật mình nghe tiếng bớ của con tôi
Tốt vút tươi vời
 
 Tạ ơn Mẹ đã ru con những câu ru mặn chát nước mắt
Ba chắt bơi trong bể đời
Tạ ơn Mẹ đã ru con những câu ru lửa cháy
Ba tôi luyện trong lò xã tắc
Những câu ru thật khổ thật buồn
Nêm nếm đức tin
  Mẹ ru con thành con của Mẹ..
 

Tôi sụp quỳ theo tiếng bớ lặng lẽ
Tạ lỗi những câu ru của Mẹ của Bà
Tôi bỗng nghe bể đời muôn giọng sóng vỗ ca
Chào những câu ru buồn khổ nở hoa..
 

Sài Gòn 7.3.2014


25. LỤC BÁT BUỒN..


Ngồi buồn hỏi cá buồn không?
Lục bát lẳng lặng đáp trong mơ hồ


Chim nghe hỏi, đáp líu lo
Líu lo cho gió mềm bờ môi cây
Say đắm như thời trai đây
Mượn lục bát võng trăng đầy ngực em

Chợt nghe bước nắng ngoài thềm
Mơ hồ vọng đáp nỗi niềm vần xoay
Sớm chiều một khúc hôm nay
Buồn đêm nắng cạn mai đầy nắng non


Nhìn theo nắng vội ghe xuồng
Tự nhiên mắt gặp hoàng hôn tuổi đời
Nhím cười..tôi hỏi buồn tôi
Buồn ngâm lục bát thay lời tri âm


Lạ chưa trắc bổng bằng trầm
Lục bát buồn..bỗng..nứt mầm nở hoa..
 

Sài Gòn, 7.2015
 


26. NỬA TÔI
 


Tìm về chầm chầm Nửa Tôi
Nửa Tôi chầm chậm đến ngồi bên Thơ
  Chờ anh dưới cột đồng hồ (*)
Anh trễ nửa giờ em vặn ngược kim..
 

Thế rồi em đợi nín im
Trong im ấy chất muôn nghìn mênh mông
Anh đi về phía non sông
Tay em vẫy nhớ cờ hồng bay theo
Anh đi về phía cheo leo
Lòng em mắc võng lưng đèo gọi trăng
Anh đi về phía tung tăng
Gửi mưa nước mắt giăng giăng mù trời...
 

Nửa về, ngồi thành Một Tôi
  
Cột Đồng Hồ Đâu Rồi ? 
Em ấp bồi hồi lên ngực trinh tân
Tiếng đồng hồ đập Hạ, Xuân..
Tay em vặn ngược bao lần Tôi ơi ?
 
Em thì thầm ấm mềm môi
Hai đầu bạc cụng một lời yêu nhau..
 

(*) Thơ Lý Phương Liên
Sài Gòn 3.2014


27. RÍU RÍT ME BAY
 

/Nghĩ đi/
Me bay, me bay.. xuống áo tôi
Chỉ xin me đừng đậu lại
Kẻo mấy bà sồn tưởng tôi là thằng đốn
Trai đường..
Kẻo mấy em tơ nhí nhảnh mắt đến xin thơ
Về đọc nướng ban mai những điệu vần tán gái..
 

/ Nghĩ lại/
Thôi thì, me cứ bay, cứ bay
Đậu đầy áo tôi cũng được
Cho tôi thành cây me cũng được
Lát nữa mình của anh sẽ rũ áo cho tôi
Vừa rũ vừa nỉ non nhắn gửi
Vừa rũ vừa ỉ ôi khuyên răn
Vừa rũ vừa gào lên giận dỗi..
Những lúc ấy, tôi hiểu là mình yêu anh biết bao
Và tôi cũng yêu mình biết bao..
 
Gió bỗng lao xao
Me rùng mình trút lá
Thơ tôi cùng ríu rít me bay...   




 28. CÂY CÓ CHÂN 

Sáng nào cũng như sáng nay
Ngồi đồng gốc Me đầu hẻm
Ly cà phê đá tứa đá
Hai điếu thuốc Con Mèo không buồn quẹt lửa..
 

Sáng nào cũng như sáng nay
Đàn xe lừa, ngựa cắm đầu cắm cổ chạy
Con đường trôi
Làm sao biết chúng trôi ra sông nào, bể nào
 

Sáng nào cũng như sáng nay
Bà bán vé số mập nứt vú rao bán thời trang ngày hôm qua
Cô bán vé số chân dài rao bán may mắn ngày hôm nay
Những nụ cười mắt cảm ơn không mua..
 

Sao bỗng sáng nay lạ thiếu lạ thừa
Vừa ngồi xuống ghế đã nghe Đất mách
Trời cho cây có chân
Me đã biết đi và đang chạy.. 

Tôi nhìn theo tay Đất
Thấy lũ lượt những cây là cây nhiều hơn cả rừng
Đang chạy như rô bô về phía Sông Ngâu
Tôi vội lao theo..gọi bớ

Bớ rừng cây kia, bớ Me già bạn ta kia
Các ngươi muốn qua cầu Cô Hồn ra biển, hả ?
Biển mang mang thế làm sao các ngươi lội qua
Nước biển mặn thế làm sao các ngươi sống nổi..
 

Rừng vẫn chạy và cây Me già bạn tôi vẫn chạy
Thôi thì (là tôi nghĩ) cứ để họ chạy
Họ đã cầu xin Trời cho chân để chạy
Trời đã cho họ chân, cầu nguyện mà
Nguyện cầu nên tôn trọng ..
 

Tôi lững thững về đầu hẻm của tôi
Đất cũng đã đi làm
Ly cà phê đá đang tứa đá
Điếu Con Mèo nhòa nhoẹt khói môi
 

Qua khói thuốc ảo mờ tôi thấy
Bà vé số nứt vú, cô vé số chân dài, đàn xe lừa ngựa
Đang tiếp rước chân Me quay về bằng lời trú Phật Bà
Sau lưng là bờ..sau lưng là bờ..
 

Bà bán vé số mập nứt vú đứng lặng một bên
Cô bàn vé số chân dài đứng lặng một bên
Bỗng cùng cười đon đả khi thấy tôi mở mắt
Gật đầu cười mua dùm mỗi người một trúng chiều nay..
 

Sài gòn, Tháng Bảy/ 2015


29. T
ÍCH ROI MÂY
 

Giá Như..
Làm gì có chuyện Giá Như..
Bởi mẹ đã về trời làm hoa nắng
Đem theo cả roi mây dậy dỗ hiền từ..
 

Giá Như..
Mình đừng một mình cà phê sáng
Để Em Mèo (1) lười lại bập môi
Vui xuất ra khói, buồn nhập vào cười
Đầy lòng tôi những cười câm nín
 

Câm nín xa lắc, xa lơ..
Bữa kia đi học về buột mồm hỏi mẹ
Sao bàn thờ nhà ta lại thờ ông Mác, ông Nin ?
Mẹ không đáp, chỉ roi mây bảo im
Mẹ không đánh mới sợ, tôi nín..
 

Câm nín xa lơ..
Xin mẹ cho cùng sang chùa
Chứng cảnh ông Lai cúi lạy trước Hai Bà (2)
  Tạ lỗi ông cha xưa cướp Nước..

Mẹ nói một chữ : Không, mắt lừ nhìn roi mây
Dù biết mẹ chỉ dọa
Mẹ không đánh mới sợ, tôi nín.
 

Câm nín xa xa..
  Hôm ấy Mẹ nghiêm trọng lắm
Mắt phóng ra roi
Nói với con hai điều
Điều một : Bồng bế nhau đi lễ Nhà Thờ
Nhớ lấy Giáng sinh này là Giáng sinh Bảy Hai (3)
Điều hai : Hãy đốt bài thơ Quả Mặt Trời (4)
Phải nhớ, Mặt Trời không có máu..
Tôi, điều một nghe theo
Và điều hai cãi lại
Sau này, bài thơ ấy vẫn in ra..
 

Câm nín xa..
Ngày thống nhất Bắc Nam
Lúc này Mẹ đã già
Chân đi không nổi tay làm sao cầm nổi roi mây..
Mẹ khóc mừng cùng dân tộc
Nhân mẹ khóc, tôi thưa xin Mẹ tha hương Sài Gòn
Mẹ hỏi nuốt nước mắt
Bỏ quê, bỏ Mẹ ư con?
Con cúi đầu
Khẩn khoản xin Mẹ cây roi mây
Mẹ không cho
Mẹ chỉ cho nước mắt..
 

Câm nín Vu Lan..
Ngày nào tôi cũng thấy Mẹ tôi
Ở trên Trời
Và ngày nào tôi cũng muốn hỏi mẹ tôi
Vì sao không cho tôi cây roi mây
 
Nhưng mãi sợ Mẹ buồn không dám hỏi
  Bữa nay Vu Lan xin Người xá tội lời con

Mẹ cười trang trang nắng
Ta hóa roi rồi..
 

... (Khóc không thành tiếng)
 

Mẹ hóa roi rồi
Tôi nghe cười trong lòng sằng sặc
Thì ra Mẹ không muốn tôi dậy cháu con tôi
Bài roi câm nín..
Nói xong, Mẹ bảo vội đi việc nắng
Tôi nũng già hỏi thêm
  Mẹ biết đấy, lòng con đầy tiếng cười câm nín
Biết rồi phải xả vào đâu..
Mẹ cười:  Khóc đi cho cười hóa nước
Rồi Trời sẽ đổ trận mưa hoa..
 

Câm nín..bây giờ
Tôi một mình ngồi cà phê sáng
Bụng đầy cười
  Chờ Trời đổ xuống trận mưa hoa.. 


Sài gòn, 7.2015



30
RAO HOANG ĐƯỜNG


Ai nhật tôi thì nhanh nào
Tia nắng vãn sắp gửi vào áo trăng
Khoan khoan đừng gọi chị Hằng
Sinh ra nắng đã ăn nằm với em.
Anh hái tôi nào, nhanh lên
Tôi nhành hoa cỏ đang xanh lên trời
Khoan khoan đừng vội mọc mời
Em ngồi sườn đồi đợi cỏ đã lâu


Sài Gòn, 6.1.2015


Tủ sách THƠ BẠN THƠ
VƯỜN NĂM NHÀ/ Thơ Nguyễn Nguyên Bảy
Nguyễn Văn Hòa, đò đưa

Không có nhận xét nào: